Khả năng số hóa, kết nối, tích hợp của CNTT đã làm thay đổi cách thức sản xuất và phương thức quản lý, tạo ra một thời đại kinh tế mới – thời đại kinh tế trí thức, đặc trưng bởi sự chuyển đổi từ công nghệ chế tạo sang công nghệ cao, trong đó CNTT là trục kết nối chính.
NHỮNG CHỈ TIÊU KHÔNG DỄ ĐẠT
Xác định vai trò quan trọng của CNTT trong phát triển đất nước, Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của hạ tầng KT-XH và toàn bộ nền kinh tế. Coi phát triển và ƯDCNTT là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng ngành, từng lĩnh vực”.
Ứng dụng CNTT giúp tăng cường tính minh bạch trong công tác quản lý nhà nước, khiến nhà nước trở nên “trong suốt” trước mắt người dân. CPĐT là cốt lõi nhất của đổi mới quản lý nhà nước. Từ năm 2010, Chính phủ đã có Chương trình ƯDCNTT trong các cơ quan quản lý nhà nước đến năm 2015, trong đó tập trung vào 3 hướng chính: Xây dựng hạ tầng thông tin cho hoạt động của Chính phủ điện tử (CPĐT) bao gồm: phần cứng, phần mềm và các CSDL; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong cơ quan quản lý nhà nước để tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả quản lý; Phục vụ người dân và xã hội.
Nghị quyết 13-NQ/TW đã đề ra một trong 3 trọng tâm cải cách cho cả giai đoạn 10 năm (2010 – 2020) là nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính và dịch vụ sự nghiệp công, trong đó CPĐT là trung tâm. Nền hành chính có được cải cách theo hướng phục vụ hay không suy cho cùng được thể hiện ở chất lượng các dịch vụ mà cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp cho các tổ chức và người dân. Các chỉ tiêu quan trọng theo hướng này đã được xác định: Cơ chế một cửa, một cửa liên thông được triển khai 100% vào năm 2013 tại tất cả các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 60%; Từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, bảo đảm sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 60% vào năm 2015; 60% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên mạng điện tử; 100% cơ quan hành chính nhà nước từ cấp huyện trở lên có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử cung cấp đầy đủ thông tin theo quy định; cung cấp tất cả các dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 2 và hầu hết các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 3 tới người dân và doanh nghiệp; Đến năm 2015, các trang tin, cổng thông tin điện tử của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn thành việc kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, hình thành đầy đủ Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Những chỉ tiêu phải đạt được đến năm 2020 còn cao hơn rất nhiều.
Theo đánh giá của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, hiện nay, việc trao đổi văn bản và giao ban điện tử trong khối các cơ quan nhà nước đã đạt tiến bộ. Nhưng trong quan hệ giữa chính quyền với người dân và chính quyền cấp dưới với cấp trên cũng như công tác xây dựng CSDL chuyên ngành vẫn là khâu yếu nhất. Sự chậm trễ này là do chưa xác định được số lượng nhóm dữ liệu đặc thù, cấu trúc nhóm dữ liệu thông tin của CPĐT. Đối với mỗi loại dữ liệu đó cũng chưa xác định được cần thu thập thông tin gì. Chuẩn dữ liệu dùng chung cũng chưa quy định rõ nên không tương thích giữa cấp dưới và cấp trên.
Từ khảo sát của BKAV, ông Nguyễn Bá Cơ, Phó GĐ Dự án BKAV, cho biết: Các cơ quan nhà nước sử dụng các phần mềm khác nhau, không có sự liên thông, liên kết. Kết quả xử lý phần mềm này chưa tương thích với đầu vào phần mềm kia. Giữa các đơn vị, việc luân chuyển văn bản lại phải chuyển phát nhanh theo cách truyền thống làm chậm trễ trong quá trình trao đổi công văn. Hầu hết các địa phương mới triển khai ƯDCNTT ở cấp huyện, chưa triển khai liên thông cấp xã.
Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, năm 2012, mặc dù thứ tự xếp hạng về Chính phủ điện tử của Việt Nam đã tăng 7 bậc, từ vị trí thứ 90 lên vi trí thứ 83, song vẫn còn có những tiêu chí như e-participant chỉ đạt 0,1 điểm; e-Information không được điếm nào. Báo cáo về CNTT toàn cầu của diễn đàn kinh tế thế giới năm 2012 đánh giá một số chỉ tiêu về môi trường thể chế, đổi mới và tác động thúc đẩy kinh tế của Việt Nam còn rất thấp. Việc ứng dụng CNTT vẫn còn có những điều bất cập. Ví dụ như: Các cơ quan nhà nước chưa gắn kết hữu cơ ƯDCNTT với quá trình cải cách hành chính; Các doanh nghiệp chưa gắn kết được ƯDCNTT với đổi mới mô hình, quy trình, phương thức ƯDCNTT chưa thực sự lấy người dân, lấy khách hàng làm trung tâm. Mô hình triển khai còn nhiều yếu tố tự phát; Hệ thống chưa đủ tập trung, thống nhất, thiếu gắn kết đồng bộ giữa các ngành. Đặc biệt nguồn đầu tư đúng, nguồn lực con người vẫn thấp về chất lượng thiếu về số lượng…
Phân tích về vấn đề này, nguyên Bộ trưởng Bộ TT&TT Lê Doãn Hợp cho rằng, việc triển khai CPĐT chưa được quan tâm đúng mức, đầu tư chưa ngang tầm và còn thiếu trọng điểm. Chính phủ vẫn thiếu thông tin, gây lãng phí thời gian và tiền bạc. Các hoạt động về CPĐT mới nặng về truyền thông, chưa đi vào thực chất. Nhiều vấn đề trong CPĐT vẫn bỏ ngỏ và chậm trễ, không rõ hướng đi cũng như cách làm. Đặt hàng của Chính phủ với các tổ chức, doanh nghiệp để triển khai CPĐT vẫn chưa rõ.
Với thực tế này, nếu Chính phủ không đốc thúc triển khai quyết liệt thì những chỉ tiêu xây dựng CPĐT đề ra đến năm 2015 sẽ khó hoàn thành đúng tiến độ.
CAM KẾT CỤ THỂ CỦA CHÍNH PHỦ
Với vai trò của người tổ chức, dẫn dắt quá trình đổi mới và tái cơ cấu nền kinh tế, Đảng và Nhà nước phải thực hiện những đột phá mạnh trong tư duy chiến lược và định hướng chính sách. Đồng thời, sự hỗ trợ theo kiểu “bà đỡ” của Chính phủ luôn luôn là điều kiện để quá trình phát triển thực tế không bị lỡ nhịp, đánh mất thời cơ. Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 8/6/2012 của Chính phủ ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết 13-NQ/TW đã giao nhiệm vụ cụ thể cho từng Bộ, Ngành và địa phương với khung thời gian cụ thể, nhằm hoàn thành các chỉ tiêu theo kế hoạch đã đề ra.
Chính phủ, giao cho Bộ TT&TT phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tập trung: Rà soát các văn bản quy phạp pháp luật, bổ sung hoàn thiện thể chế nhằm tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường thuận lợi cho phát triển CNTT; Thực hiện các giải pháp, cơ chế, chính sách để khai thác và huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển CNTT và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đồng thời bảo đảm lợi ích hài hòa cho nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài.
Bộ TT&TT phải rà soát, điều chỉnh, bổ sung Chiến lược phát triển CNTT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện và bối cảnh mới của Nghị quyết 13 của Hội nghị TW4 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2013; Xây dựng đề án quy hoạch phát triển CNTT đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, bảo đảm tính đồng bộ, kết nối trong nội bộ ngành, liên ngành, liên vùng trên phạm vi cả nước, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2013.
Chính phủ giao cho Bộ TT&TT phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong 2 năm 2012-2013 xây dựng đề án huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng thông tin đến năm 2020, đảm bảo tính khả thi để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2013.
Bộ TT&TT phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) và các bộ ngành có liên quan trong thời kỳ 2012-2020 tập trung xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn để xây dựng hệ thống hạ tầng CNTT và truyền thông kết nối với quốc tế, hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và liên kết quốc tế. Chương trình và kế hoạch đầu tư trung hạn về phát triển công nghiệp CNTT, thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển nhanh; xây dựng được những khu CNTT trọng điểm quốc gia.
Bộ TT&TT phối hợp với Bộ KHĐT, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ ngành có liên quan Xây dựng đề án và tập trung xây dựng cho được CSDL quốc gia về công dân; CSDL về đất đai; CSDL quốc gia về nhà ở và CSDL quốc gia doanh nghiệp. Đề án phải bảo đảm tính đồng bộ, kết nối trong nội bộ từng ngành, liên ngành, liên vùng trên phạm vi cả nước. Nhiệm vụ này được triển khai thực hiện có lộ trình và được thực hiện trong cả giai đoạn 2012-2020…
Chính phủ cũng giao Bộ TT&TT chủ trì phối hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các bộ, ngành và các cơ quan liên quan, các địa phương xây dựng đề án và triển khai ngay việc thực hiện Thẻ Công dân điện tử phạm vi cả nước. Thời gian thực hiện nhiệm vụ này trong cả giai đoạn 2012-2020.
Chính phủ giao cho tất cả các bộ, ngành trong 2 năm 2012-2013 phải xây dựng xong đề án đầu tư ứng dụng CNTT vào quản lý, khai thác, vận hành của các ngành mình giai đoạn 2012-2020. Bộ giáo dục và Đào tạo xây dựng đề án đầu tư ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo, phát triển sách giáo khoa điện tử, đào tạo trực tuyến… nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương thức dạy và học, đổi mới thi cử và đánh giá chất lượng giáo dục; Bộ Y tế xây dựng đề án đầu tư phát triển y tế thông minh nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, góp phần tiết kiệm chi phí, hạn chế quá tải bệnh viện; Bộ Công thương, xây dựng đề án đầu tư phát triển hệ thống thương mại điện tử…
Đề bảo đảm nguồn nhân lực cho phát triển CNTT, Chính phủ giao cho Bộ TT&TT trong 2 năm 2012-2013 xây dựng Chương trình đầu tư nâng cao năng lực phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt trình độ quốc tế; nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, năng lực nghiên cứu phát triển, khả năng làm chủ công nghệ nguồn, sản xuất được các sản phẩm lõi, sản phẩm trọng điểm về CNTT; nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý hệ thống hạ tầng thông tin, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, chủ quyền quốc gia về không gian mạng.
TRIỂN KHAI THEO TỪNG BƯỚC ĐI THÍCH HỢP
Nguyên Bộ trưởng Bộ TT&TT Lê Doãn Hợp cho rằng: Nước ta còn nghèo nên phải làm từng bước. Trước tiên, muốn có CPĐT phải có công dân điện tử, lãnh đạo điện tử, không chỉ biết sử dụng CNTT mà phải biết xử lý những vấn đề đồng bộ trên toàn hệ thống. Chính phủ cần xác định rõ nội dung dịch vụ cho CPĐT, đảm bảo đồng bộ, thống nhất và cần thiết. Trong CPĐT có 3 kênh quan trọng nhất: Chính phủ với chính quyền các cấp; Chính phủ với doanh nghiệp; Chính phủ với công dân. 3 lĩnh vực cần ưu tiên hàng đầu là: Giáo dục, Y tế và đất đai.
Muốn đẩy nhanh CPĐT, nhà nước cần sớm thực hiện công khai, minh bạch trong hệ thống hành chính, đáng chú ý là công khai minh bạch về: Thể chế, chính sách; Quy hoạch đất đai; Đấu thầu; Thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc; Tài sản công chức; Khen thưởng, kỷ luận cán bộ, công chức v.v… Đây vừa là mục tiêu, vừa tạo động lực để thúc đẩy triển khai CPĐT nhanh hơn. Nơi nào chính quyền càng minh bạch thì càng dễ triển khai CPĐT. Có thể lấy hiệu quả triển khai CPĐT ở các Bộ, Ngành, địa phương làm thước đo tính minh bạch của cơ quan quản lý nhà nước nơi đó.
Trong việc lựa chọn những lĩnh vực ưu tiên ƯDCNTT để nâng cao hiệu quả quản lý và giải quyết bài toán phát triển trong giai đoạn từ nay đến 2015 và tầm nhìn đến 2020, Nghị quyết 13-NQ/TW cũng đã chỉ ra nội dung cụ thể trong việc phát triển hạ tầng CNTT: “phát triển mạnh hệ thống kết nối đa dạng với quốc tế, hình thành siêu xa lộ thông tin trong nước và liên kết quốc tế”; xác định các định hướng ứng dụng CNTT: “xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công dân, đất đai, nhà ở, làm cơ sở cho việc ứng dụng CNTT quản lý các nguồn lực phát triển đất nước… Đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và toàn bộ nền kinh tế…”.
Ông Lê Thái Hỷ – Giám đốc Sở TT&TT Thành phố Hồ Chí Minh – đề xuất: CPĐT trước khi phục vụ người dân thì phải hoạt động chuyên nghiệp trong môi trường điện tử… Quản lý được cơ sở hạ tầng bằng CNTT. Cần xây dựng một hệ thống thông tin đa dạng và thông suốt, qua đó, tạo lập một CSDL nền tảng và các phần mềm tác nghiệp…; Xây dựng và vận hành các dịch vụ hành chính công trực tuyến và hệ thống một cửa điện tử, phục vụ hiệu quả; Hình thành một mối quan hệ mật thiết giữa các thành phần chính trong CPĐT.
Chính phủ thiết lập một đầu mối chỉ đạo triển khai CPĐT, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến: Cấu trúc CPĐT, từ Bộ, Ngành đến chính quyền địa phương để tránh chồng chéo; liên quan đến Trung tâm CSDL quốc gia và thể chế của chính quyền điện tử. Khi triển khai nhiều dịch vụ mức độ 3 thì phải đảm bảo hành lang pháp lý để thực hiện. Vấn đề này liên quan đến thể chế.
Triển khai CPĐT tập trung đầu tư thành công tại các thành phố lớn. Từ mô hình này lan tỏa đến các địa phương, tạo ra tính hiệu quả, đồng bộ rất lớn.
Mặt khác, muốn xây dựng CPĐT thành công phải tính đến chuẩn giao tiếp, tính khả thi, đưa ra quy chuẩn chung thì các hệ thống mới có thể bắt tay với nhau. Xây dựng CPĐT phải tính trước những bài toán liên thông trong các vấn đề xử lý văn bản, một cửa điện tử, cổng thông tin… Nhà nước cần đưa ra chuẩn chung và phải có đặc tả cụ thể, yêu cầu nhà sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết kế theo yêu cầu đó. Mặt khác, chuẩn kỹ thuật và các trường của CSDL phải vừa mở lại vừa động để có thể thay đổi, cập nhật thông tin và đồng bộ hóa thông tin…
Hiện nay mới chỉ có ngành tài chính là tạo được cơ sở dữ liệu dùng chung liên thông trong nội bộ ngành và cũng phải đầu tư rất lớn thì mới làm nổi. Ngành môi trường, ngành địa chính … cũng đang quyết tâm xây dựng CSDL chuyên ngành. “Cuối năm nay và trong năm 2013 cần quyết liệt tạo lập các cơ sở dữ liệu dùng chung, liên thông. Tích hợp được dữ liệu thì mới có thể điều hành tốt”, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh.
CẤP CAO NHẤT CỦA CHÍNH PHỦ PHẢI VÀO CUỘC
Ông James Jong, Giám đốc Chương trình Khu vực công – Cisco Systems châu Á, chia sẻ: Không có quốc gia nào khẳng định là mô hình CPĐT chuẩn. Chỉ có quốc gia khẳng định giỏi một lĩnh vực. “Tôi có thể chỉ ra mạnh về băng thông rộng là Hàn Quốc; Singapore có cổng công dân điện tử và điện toán đám mây Chính phủ; Australia mạnh về Trung tâm hỗ trợ công dân và các hoạt động thuê ngoài bên thứ ba cho các dịch vụ công của Chính phủ”. Tuy nhiên, khi tìm hiểu tại các quốc gia đã triển khai CPĐT đạt hiệu quả cao thì đều thấy một điểm chung: vai trò của người đứng đầu.
Bên lề Diễn đàn cấp cao CNTT-TT Việt Nam năm 2012 (Vietnam ICT Summit) diễn ra mới đây, ông Dato’ Dan E Khoo, Chủ tịch Liên minh CNTT Thế giới (WITSA) đã nhiệt tình chia sẻ một số bài học kinh nghiệm hay từ đất nước mình. Malaysia có một Ủy ban chung điều phối hoạt động CNTT-TT của cả nước. Thành viên Ủy ban là lãnh đạo các Bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp. Người đứng đầu trực tiếp chỉ đạo điều hành Ủy ban chính là Thủ tướng Chính phủ. Những tiêu chí để đánh giá năng lực của các Bộ trưởng được căn cứ trên hiệu quả ứng dụng CNTT của các Bộ, Ngành đó.
Không chỉ có Malaysia, các quốc gia triển khai CPĐT rất thành công như Hàn Quốc, Singapore, Nhật Bản, Thái Lan… đều có sự chỉ đạo trực tiếp từ lãnh đạo cấp cao nhất của Chính phủ. Phải ở tầm quyền lực cao nhất và mức độ chịu trách nhiệm cao nhất thì mới có khả năng đôn đốc, điều phối các Bộ, Ngành triển khai CPĐT ăn khớp với nhau. Có thể thấy, trong chương trình hành động của Chính phủ Việt Nam đã bao quát những nội dung cốt lõi để thúc đẩy triển khai CPĐT, từ quy hoạch hạ tầng CNTT, xây dựng chuẩn quốc gia về CNTT, xây dựng thể chế, chính sách… đến chiến lược phát triển nguồn nhân lực CNTT. Vấn đề cuối cùng là người đứng mũi chịu sào, chỉ đạo, điều phối hoàn thiện bức tranh tổng thể về CPĐT tại Việt Nam. Giới CNTT trong và ngoài nước đều cho rằng, để triển khai CPĐT thành công, Việt Nam sẽ phải học theo các quốc gia đi trước, Thủ tướng Chính phủ cần trực tiếp chỉ đạo.
http://tapchibcvt.gov.vn – 04:13 | 07/05/2013